[PHẦN 1]: HIỂU RÕ VỀ THUẾ SUẤT THUẾ GTGT ĐỐI VỚI HÀNG NÔNG SẢN. TẠI SAO CÓ TRƯỜNG HỢP KO KÊ KHAI NỘP THUẾ VÀ THUẾ 5%. KẾ TOÁN VÀ CHỦ DOANH NGHIỆP ĐỌC BÀI PHÂN TÍCH.
Thuế Giá trị gia tăng (GTGT) là một loại thuế gián thu, đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa và dịch vụ tại mỗi khâu trong chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, đối với hàng nông sản, quy định về thuế GTGT lại có hai cách tính khác nhau tùy thuộc vào đối tượng mua hàng: không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT khi doanh nghiệp hoặc hợp tác xã bán hàng cho doanh nghiệp hoặc hợp tác xã kinh doanh thương mại; phải kê khai, tính thuế GTGT với thuế suất 5% khi doanh nghiệp bán hàng cho hộ kinh doanh cá thể hoặc cá nhân, tổ chức không hoạt động thương mại. Sự phân biệt này xuất phát từ bản chất của thuế GTGT và có cơ sở pháp lý rõ ràng trong quy định hiện hành. Để hiểu rõ hơn, cần xem xét nguyên tắc của thuế GTGT và mục tiêu của Nhà nước khi áp dụng hai phương án tính thuế này.
1. Bản chất của thuế GTGT: Đánh vào người tiêu dùng cuối cùng
Thuế GTGT được thiết kế để thu theo từng khâu trong chuỗi cung ứng nhưng cuối cùng người tiêu dùng là người chịu thuế. Doanh nghiệp trong chuỗi sản xuất và phân phối chỉ đóng vai trò thu hộ thuế cho Nhà nước, chứ không phải là đối tượng chịu thuế thực sự. Nếu không có cơ chế khấu trừ, thuế GTGT sẽ bị đánh nhiều lần trong quá trình luân chuyển hàng hóa, làm tăng giá bán một cách không hợp lý. Do đó, không phải giao dịch nào cũng bị tính thuế GTGT ngay lập tức, mà chỉ khi hàng hóa đạt đến một giai đoạn nhất định trong chuỗi cung ứng, thuế mới được thu. Điều này nhằm đảm bảo thuế chỉ được đánh một lần trên giá trị tăng thêm ở khâu gần nhất với người tiêu dùng cuối cùng.
2. Cơ sở pháp lý cho việc không kê khai, tính thuế GTGT khi bán hàng cho doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Theo Khoản 5, Điều 5, Thông tư 219/2013/TT-BTC, khi doanh nghiệp bán sản phẩm nông sản chưa qua chế biến hoặc chỉ qua sơ chế thông thường cho một doanh nghiệp hoặc hợp tác xã hoạt động kinh doanh thương mại, thì không phải kê khai, tính thuế GTGT. Quy định này dựa trên nguyên tắc tránh thuế chồng thuế và đảm bảo hàng hóa chưa đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Lý do không kê khai thuế ở giai đoạn này có thể phân tích cụ thể như sau:
- Hàng hóa chưa đến tay người tiêu dùng cuối cùng: Doanh nghiệp thương mại tiếp tục bán hàng cho khách hàng khác, chưa kết thúc chu kỳ tiêu dùng.
- Tránh thuế chồng thuế: Nếu thuế được tính ở giai đoạn này, sau đó tiếp tục bị tính khi bán ra, giá sản phẩm sẽ bị đội lên một cách không hợp lý.
- Cơ chế khấu trừ thuế đảm bảo thuế GTGT vẫn được thu ở giai đoạn sau: Khi doanh nghiệp thương mại bán hàng cho khách hàng cuối cùng, thuế GTGT sẽ được tính đầy đủ.
Về bản chất, Nhà nước không mất khoản thuế này mà chỉ dời thời điểm thu thuế sang giai đoạn sau, khi hàng hóa thực sự đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Ấn vào học thử Miễn phí BCTC, KTT và KTT: https://zalo.me/g/clscem026
3. Cơ sở pháp lý cho việc kê khai, tính thuế GTGT 5% khi bán cho hộ kinh doanh cá thể hoặc cá nhân không hoạt động thương mại. Ngược lại, nếu doanh nghiệp bán hàng cho hộ kinh doanh cá thể hoặc cá nhân không thuộc khâu thương mại, thì phải kê khai, tính thuế GTGT với thuế suất 5% theo Khoản 5, Điều 10, Thông tư 219/2013/TT-BTC, do sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản chưa chế biến hoặc chỉ qua sơ chế thông thường khi bán ra ở khâu này sẽ chịu thuế suất 5%.
Lý do áp dụng thuế suất 5% ở giai đoạn này là:
- Hàng hóa đã đến giai đoạn gần cuối của chuỗi cung ứng: Khi bán cho hộ kinh doanh cá thể, hàng hóa có thể được bán trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng.
- Hộ kinh doanh cá thể không có cơ chế khấu trừ thuế GTGT: Khác với doanh nghiệp thương mại, hộ kinh doanh nhỏ thường nộp thuế theo phương pháp trực tiếp, không có hệ thống khấu trừ thuế đầu vào – vì vậy cần thu thuế ở giai đoạn này.
- Đảm bảo thu đủ thuế cho ngân sách Nhà nước: Nếu không thu thuế GTGT ở giai đoạn này, Nhà nước có thể mất nguồn thu, vì nhiều hộ kinh doanh cá thể không có hệ thống kê khai thuế minh bạch như doanh nghiệp.
Quy định này giúp đảm bảo rằng thuế GTGT được thu đúng nơi, đúng thời điểm, không gây thất thu thuế nhưng cũng không làm tăng giá hàng hóa một cách không hợp lý.
Tóm lại, sự phân biệt giữa không kê khai thuế khi bán cho doanh nghiệp thương mại và tính thuế GTGT 5% khi bán cho hộ kinh doanh cá thể có những ý nghĩa quan trọng:
- Tránh thuế chồng thuế: Nếu doanh nghiệp thương mại bị thu thuế GTGT ngay khi mua hàng, sau đó tiếp tục thu thuế khi bán ra, giá hàng hóa sẽ tăng không hợp lý.
- Đảm bảo thuế GTGT được thu ở giai đoạn gần nhất với người tiêu dùng cuối cùng: Doanh nghiệp thương mại có thể khấu trừ thuế đầu vào khi bán ra, nhưng hộ kinh doanh cá thể không có cơ chế này.
- Bảo vệ ngân sách Nhà nước: Nếu hộ kinh doanh cá thể không bị thu thuế GTGT 5% khi mua hàng, Nhà nước có thể mất nguồn thu do không thể kiểm soát được việc bán ra sau này.
Việc tách hai phương án tính thuế GTGT đối với hàng nông sản được quy định rõ ràng trong Thông tư 219/2013/TT-BTC nhằm đảm bảo thuế GTGT được thu đúng bản chất và đúng thời điểm: nếu bán cho doanh nghiệp thương mại, thuế GTGT không cần kê khai, tính nộp vì hàng hóa vẫn đang trong chuỗi cung ứng; nếu bán cho hộ kinh doanh cá thể hoặc cá nhân, thuế GTGT phải tính 5% vì đây là giai đoạn gần cuối trong chuỗi cung ứng. Sự phân biệt này giúp tránh thuế chồng thuế, hỗ trợ doanh nghiệp thương mại và đảm bảo thu thuế đúng đối tượng, đồng thời phản ánh đúng bản chất thuế GTGT là đánh vào người tiêu dùng cuối cùng.
Ở phần 2, tôi sẽ giải thích thêm cho các bạn hiểu về sự "TRÁNH ĐÁNH CHỒNG THUẾ GTGT" trong trường hợp này là như thế nào. Hãy theo dõi Admin Nguyen Ho Ngoc từ DIỄN ĐÀN THUẾ ✅
Tư duy toàn diện dành cho Kế toán đáp ứng vị trị KTTH, KTT - W1 Tư duy Kế toán 30 chạm 30: https://taichinhketoanedu.com/w1-p31.html
Cám ơn các bạn đã đọc bài viết, nếu thấy hữu ích hãy like, share và bình luận cám ơn để ủng hộ đội ngũ ban biên tập nhé.
Mr Wick Kiểm toán - Đào tạo Kế toán chuyên nghiệp
ATC Academy | Công ty TNHH Đào tạo và Tư vấn Á Châu
Today's studying plants the seeds for future's success. Make each day a little better than before
Mobile/Zalo: 0353969622