Chi phí lãi vay là một khoản chi phí tài chính quan trọng mà nhiều doanh nghiệp phải đối mặt trong quá trình đầu tư, đặc biệt là khi mua sắm tài sản cố định (TSCĐ). Một câu hỏi lớn đặt ra là liệu chi phí lãi vay phát sinh trong quá trình mua sắm, lắp đặt và chạy thử TSCĐ có được vốn hóa vào nguyên giá của tài sản hay không. Để làm rõ vấn đề này, cần phải phân tích từ ba góc độ chính gồm Chuẩn mực kế toán (VAS 16 - Chi phí đi vay), Chế độ kế toán (Thông tư 200/2014/TT-BTC) và Thuế (Thông tư 45/2013/TT-BTC) cũng như xem xét các hướng dẫn từ Bộ Tài chính để đảm bảo sự phù hợp với quy định pháp luật.
1. Chuẩn mực kế toán: Khi nào lãi vay được vốn hóa?
Theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 16 (VAS 16) về Chi phí đi vay, chi phí lãi vay được vốn hóa khi thỏa mãn hai điều kiện. Một là chi phí lãi vay liên quan trực tiếp đến việc đầu tư xây dựng hoặc sản xuất tài sản dở dang. Hai là tài sản đó phải cần một khoảng thời gian đủ dài (trên 12 tháng) để có thể đưa vào sử dụng hoặc để bán. Nếu chi phí lãi vay không đáp ứng các điều kiện này thì bắt buộc phải ghi nhận ngay vào chi phí tài chính trong kỳ.
Chuẩn mực kế toán nhấn mạnh rằng chi phí lãi vay chỉ có thể vốn hóa khi tài sản đang trong quá trình đầu tư xây dựng hoặc sản xuất, tức là tài sản chưa hoàn thiện và chưa sẵn sàng sử dụng ngay. Điều này có nghĩa là nếu doanh nghiệp mua sắm một TSCĐ hoàn chỉnh, kể cả khi tài sản đó cần lắp đặt hoặc chạy thử trước khi sử dụng, thì việc vốn hóa chi phí lãi vay không được quy định một cách rõ ràng. Do đó, quan điểm của VAS 16 có phần mở rộng hơn khi xét đến tính chất dở dang của tài sản nhưng không đủ cụ thể để áp dụng cho mọi trường hợp.
2. Chế độ kế toán: Cách hạch toán nguyên giá tài sản cố định
Theo hướng dẫn của Thông tư 200/2014/TT-BTC, nguyên giá của TSCĐ bao gồm giá mua thực tế cộng với các khoản thuế (không bao gồm thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Những chi phí này có thể bao gồm chi phí vận chuyển, lắp đặt, chạy thử và các khoản phí khác có liên quan trực tiếp đến việc sở hữu và đưa tài sản vào hoạt động.
Tuy nhiên, chế độ kế toán lại có một quan điểm rất rõ ràng khi đề cập đến chi phí lãi vay. Đối với TSCĐ được mua sắm hoàn chỉnh, dù có thể cần lắp đặt hoặc chạy thử trước khi đưa vào sử dụng, chi phí lãi vay phát sinh trong giai đoạn này không được vốn hóa vào nguyên giá của TSCĐ mà phải ghi nhận vào chi phí tài chính trong kỳ. Điều này có nghĩa là bất kể tài sản có qua giai đoạn lắp đặt hay không, nếu bản chất tài sản đó là do mua sắm, doanh nghiệp sẽ không được vốn hóa lãi vay.
3. Quan điểm của Thuế: Hướng dẫn từ Thông tư 45/2013/TT-BTC
Nguyên giá tài sản cố định (TSCĐ) hữu hình mua sắm được xác định theo Thông tư 45/2013/TT-BTC, nguyên giá TSCĐ hữu hình mua sắm (kể cả mua mới và cũ): là giá mua thực tế phải trả cộng (+) các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại), các chi phí liên quan trực tiếp phải chi ra tính đến thời điểm đưa tài sản cố định vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như: lãi tiền vay phát sinh trong quá trình đầu tư mua sắm tài sản cố định; chi phí vận chuyển, bốc dỡ; chi phí nâng cấp; chi phí lắp đặt, chạy thử; lệ phí trước bạ và các chi phí liên quan trực tiếp khác. Theo câu này, chi phí lãi vay phát sinh trong quá trình đầu tư mua sắm TSCĐ có thể được vốn hóa vào nguyên giá nếu đáp ứng điều kiện theo quy định.
Do vậy mới có sự mâu thuẫn giữ quy định về Kế toán và Thuế, chính vì thế nên quan điểm này đã được Bộ Tài chính làm rõ qua nhiều công văn như Công văn số 14494/BTC-QLKT năm 2018, Công văn số 1721/TCT-CS năm 2021 và Công văn số 3849/TCT-CS năm 2019. Theo đó, nếu doanh nghiệp mua sắm TSCĐ từ bên ngoài, kể cả khi tài sản cần phải qua lắp đặt, chạy thử, chi phí lãi vay phát sinh trong giai đoạn này không được vốn hóa vào nguyên giá của tài sản mà phải ghi nhận ngay vào chi phí tài chính. Chỉ trong trường hợp doanh nghiệp tự xây dựng, tự sản xuất TSCĐ, chi phí lãi vay phát sinh trong quá trình này mới được vốn hóa.
4. Sự khác biệt giữa kế toán, thuế và tác động thực tế
Sự khác biệt giữa ba quan điểm trên có thể dẫn đến những tình huống khác nhau trong thực tế hạch toán và quyết toán thuế của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp áp dụng chế độ kế toán và không vốn hóa chi phí lãi vay vào nguyên giá TSCĐ, chi phí này sẽ được ghi nhận vào chi phí tài chính và ảnh hưởng ngay đến lợi nhuận kế toán trong kỳ. Tuy nhiên, khi kê khai thuế, do quy định thuế cho phép vốn hóa lãi vay vào nguyên giá, doanh nghiệp có thể gặp tình trạng chênh lệch tạm thời giữa báo cáo tài chính và báo cáo thuế.
Trong trường hợp doanh nghiệp vốn hóa chi phí lãi vay theo quan điểm thuế nhưng kế toán không chấp nhận, doanh nghiệp cần có sự điều chỉnh trong hồ sơ quyết toán thuế và giải trình rõ ràng với cơ quan thuế để tránh rủi ro bị loại chi phí hoặc bị yêu cầu điều chỉnh lại số liệu báo cáo tài chính.
Để giảm chênh lệch, chế độ kế toán cần mở rộng phạm vi vốn hóa chi phí lãi vay cho tài sản mua sắm có lắp đặt, chạy thử trước khi sử dụng, thay vì chỉ áp dụng cho tài sản tự xây dựng, sản xuất. Đồng thời, cần có hướng dẫn cụ thể hơn về thời điểm tài sản “sẵn sàng đưa vào sử dụng” để đảm bảo doanh nghiệp có cơ sở áp dụng nhất quán giữa kế toán và thuế. Việc điều chỉnh này giúp doanh nghiệp thống nhất cách hạch toán, giảm rủi ro bị loại chi phí khi quyết toán thuế và hạn chế chênh lệch giữa báo cáo tài chính và kê khai thuế, qua đó nâng cao tính minh bạch và hiệu quả quản lý tài chính.
Ấn vào học W1 Tư duy Kế toán 30 chạm 30: https://zalo.me/g/gxgoll483
Mr Wick Kiểm toán - Đào tạo Kế toán chuyên nghiệp
ATC Academy | Công ty TNHH Đào tạo và Tư vấn Á Châu
Today's studying plants the seeds for future's success. Make each day a little better than before
Mobile/Zalo: 0353969622